Kiến thức lịch sử 9: Những câu chuyện về cuộc đời Nguyễn Trãi.Những câu chuyện về cuộc đời Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi - Tiểu sử : Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do
1/ Chỉ thấy người ta thờ Quan Vũ thôi ko thấy ai thờ GCL hết. Nhưng có người thờ Nguyễn Trãi. 2/ GCL là người thua trận còn Nguyễn trãi là người thắng trận. kẻ thắng đương nhiên giỏi hơn. Nghe xong tui cực kì bức xúc X ( vì GCL là thần tượng của tui. Nhưng tui thấy về
Bóng chuyền. Nguyễn Đức Tuân giành HCV SEA Games, mơ về Olympic | Cúp Chiến Thắng 2022. Sau tấm HCV lịch sử của bóng chuyền Việt Nam tại SEA Games 31, Nguyễn Đức Tuân đã không giấu diếm ước mơ góp mặt tại sự Tân HLV Thái Lan và những mục tiêu cùng bóng chuyền Hóa chất Đức Giang. Ngôi sao Serbia xác nhận đó là câu chuyện dài. Tin mới nhất. Game io là gì?
Mặt khác câu thơ Truyện Kiều là câu thơ tự sự, nó sử dụng thành thạo rất nhiều hư từ như thì, mà, là, lại, đã, đâu, càng, … khiến câu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, thanh thoát, thể hiện được ngữ điệu nói của các nhân vật và lời kể chuyện. Do nhu cầu đối mà
Hướng dẫn. Mở bài Cảm nhận của anh chị về con người Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè. Nhà thơ là những người luôn trao trọn trái tim và tâm hồn mình cho thơ. Đọc thơ người đọc có thể hiểu được tâm trạng, tình cảm và thậm chí là phẩm chất của nhà thơ đó.
Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót, buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên: " …. Càng một ngày càng ngặt đến xương …. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười …. Bui một lòng người cực hiểm thay".
IgSbtIr. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn TrãiNguyễn TrãiVnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà danh nhân Nguyễn Trãi để tìm hiểu và tham khảo giúp chúng ta hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi Trãi chữ Hán 阮廌, hiệu là Ức Trai 抑齋, 1380–1442, là một anh hùng dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế sửQuê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của ông Nguyễn Phi Khanh, vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái-con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà thần nhà HồNguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu có nghĩa là An Vui Lớn.Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đều làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu quân Minh sang đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị giặc Minh bắt giữ ở Đông văn trong khởi nghĩa Lam SơnNguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói khác nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài liệu nói ông tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420 ông mới theo Lê Lợi. Ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi vua Lê Thái Tổ sau này trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho Lê biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng 1427, quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 3 tướng giỏi Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trng thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng,Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.xem chi tiết Khởi nghĩa Lam SơnTheo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam sau bài thơ Nam quốc sơn thần bị tộiBị vạ với người trong họSau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi là dòng dõi nhà Trần, mưu phản, sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên hãn và Phạm Văn Xảo. hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề được Nguyên Hãn ủng hộ với con thứ Lê Nguyên Long được Lê Sát ủng hộNăm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Kiếp Bạc, thuộc tỉnh Hải Dương ngày án Lệ Chi ViênXem chi tiết Vụ án Lệ Chi ViênThái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn nhỏ tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế. Nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thứ tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành tức vua Lê Thánh Tông sau này.Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Lệ Chi Viên Gia Lương, Bắc Ninh ngày nay, có vợ ông là bà Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Vua đột ngột qua đời. Ông bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ tru di tam tộc ngày 16 tháng 8 năm 1442. Một cuộc đời oanh liệt với bao công lao đóng góp cho dân tộc cho đất nước của ông đã bị hen ố vì những mưu lợi ích kỷ của triều đình thời tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân TôngHậu thếTheo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông, truy tặng ông chức Tán trù bá. Con cháu ông được tìm lại và bổ gia phả họ Nguyễn, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn sống và được bổ dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẫn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi sau này 2 chi của Công Duẫn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, một ngành là các chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có công giúp các chúa Nguyễn khai phá Nam Bộ xem chi tiết chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh. Ngược lên trên, gia phả còn cho biết tổ tiên của Nguyễn Trãi chính là Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế tác phẩm văn thơNguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm 1417–1427. Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu nhưViệc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,Nước non bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác;Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Song hào kiệt thời nào cũng có.trích theo bản dịch của Ngô Tất TốBình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác thêmỨc Trai thi tậpQuân trung từ mệnh tậpDư địa chíBăng Hồ di sự lụcLam Sơn thục lụcQuốc Âm thi tậpSách bình NgôBình Ngô đại cáoKhởi nghĩa Lam SơnLê LợiLê Thái TôngVụ án Lệ Chi Viên
Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu Thuyết minh về Nguyễn Trài Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi 1380–19/9/1442, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang nay thuộc Chí Linh, Hải Dương. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên xét về tác phẩm của Nguyễn Trãi, có người đã từng nói “Thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện một tầm vóc tư tưởng mà còn là một tâm hồn nhạy cảm rất giàu chất thơ trước đất nước, con người và thiên nhiên”.Nguyễn Trãi – một trong những con người kiệt xuất của dân tộc, một nhà văn, nhà văn hóa tài năng. Ông là một trong những nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn trong cả lĩnh vực nghệ thuật và chính trị, một tâm hồn lớn lao nhưng bất lực trước thế sự ngổn ngang. Nguyễn Trãi đã dành cả cuộc đời cho nhân dân, tâm hồn ông sáng tựa sao Khuê, cho đến tận bây giờ những tác phẩm của ông vẫn tồn tại bất diệt với thời gian. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng ViệtNam. Ông được coi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá của ViệtNam và thế giới. Thuyết minh về Nguyễn Trãi Những nét chính trong cuộc đờiThời thơ ấu của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi làm quan với nhà HồMười năm phiêu dạt của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Vụ án Lệ Chi ViênĐược phục hồi danh dựThuyết minh về Nguyễn Trãi Những dấu ấn trong sự nghiệpTư tưởng Nguyễn TrãiẢnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiẢnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiSự nghiệp văn chươngNhững tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn TrãiNhận định về Nguyễn TrãiVề phẩm chất và sự nghiệpVề văn chươngVề nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ caẢnh hưởng của Nguyễn Trãi tới xã hội phong kiến và bây giờẢnh hưởng trong văn hưởng trong nghệ thuật Thuyết minh về Nguyễn Trãi Những nét chính trong cuộc đời Thời thơ ấu của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi 阮廌, hiệu là Ức Trai 抑齋 sinh năm 1380 tại làng Chi Ngại, huyện Chí Linh nay là thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh, người làng Chi Ngại, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Mối lương duyên của thân phụ và thân mẫu Nguyễn Trãi là một ngoại lệ đối với những qui định hôn nhân khắt khe của tôn thất nhà Trần, Trần Nghệ Tông đã không cho Nguyễn Phi Khanh làm quan khi ông đỗ Thái học sinh vì ông là kẻ thứ dân mà lấy vợ giàu sang, cho rằng như vậy là phạm thượng. Đôi vợ chồng trẻ có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng. Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời, anh em Nguyễn Trãi lại nương nhờ ông ngoại là Trần Nguyên Đán nhưng đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học. Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì Hồ Quý Ly đã bài bác Tống Nho là không thiết thực. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học. Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc Cố viên loạn hậu hữu tiên lư Lục tuế nhi đồng phả ái thư Nghĩa là Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ Sáu tuổi con thơ rất thích sách Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét Ông [Nguyễn Trãi] tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả. Vua Lê Lợi và Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi làm quan với nhà Hồ Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành lập. Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư[8], được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám[9]. Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà. Mười năm phiêu dạt của Nguyễn Trãi Cuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể. Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển mười năm phiêu dạt lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối. Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa. Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa. Ngoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc ở thời kì này, dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam dạ bạc Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam, Ngô Châu, Giang Tây, Thiều Châu Văn Hiến miếu Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu, Đồ trung kí hữu Trên đường gửi bạn… Tổng kết về giai đoạn này của cuộc đời Nguyễn Trãi, Nguyễn Lương Bích khẳng định “Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược”— Nguyễn Lương Bích Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn Yết kiến ở Lỗi Giang Thời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất. Một số học giả cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416. Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420[16] hoặc 1421 hay sau đó một chút. Với một số phát hiện mới, đặc biệt là bản Đinh tộc ngọc phả của dòng họ Đinh Liệt thì Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn và Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ, đến Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân vào mùa xuân năm 1423. Đinh tộc ngọc phả cũng ghi chép một câu chuyện về sự ra mắt của Nguyễn Trãi. Khi ấy, quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba, lương thực thiếu thốn, quân sĩ mỏi mệt. Về phía quân Minh cũng lúng túng với việc đánh dẹp quân khởi nghĩa, có ý muốn giảng hoà. Ngày 6 tháng 4 năm 1423 tức ngày 26 tháng 2 âm lịch năm Quý Mão , Bình Định Vương cùng các tướng lĩnh hội bàn phương lược khởi nghĩa. Lê Sát, Lê Thụ, Đinh Bồ, Phạm Vấn kiên quyết muốn đánh nhưng Đinh Liệt chủ trương hoà hoãn để xây dựng lực lượng. Nguyễn Trãi theo Nguyễn Nhữ Lãm đẩy cửa bước vào, ung dung phân tích phải trái, khuyên Bình Định Vương nên giảng hoà với quân Minh làm thượng sách. Ý kiến ấy của Nguyễn Trãi nhanh chóng được chấp thuận. Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh mà chủ yếu là tâm công 心 攻, đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng. Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân. Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch Tháng 6 năm 1423, Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả, mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hoà. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo, khôn khéo, Tổng binh nhà Minh là Trần Trí chấp thuận ngay. Từ đây, mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo. Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật hoặc mỡ viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần 黎利為君, 阮廌為臣, nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần 黎利為君, 百姓為 臣, nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi[23]. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân. Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trần Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn đầu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới. Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Tháng 8 năm 1425, Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào Tân Bình, Thuận Hoá và liên tiếp giành được thắng lợi. Cho đến cuối năm 1425, không chỉ Nghệ An mà cả miền đất từ dãy Tam Điệp trở vào đèo Hải Vân đều thuộc địa bàn quản lí của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ còn cố thủ trong năm thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá chờ cứu viện. Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động – Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc. Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đồng thời, ông cũng sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh ; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại. Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô… mà thôi. Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng – Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Quân Minh ở Đại Việt lâm vào tình thế khốn quẫn hoàn toàn, buộc phải đề nghị giảng hoà. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Đại Việt. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rõ rằng “Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói “Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm ; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được ; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được”, nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra. — Đại Việt sử ký toàn thư Nhờ đó, quân Minh nhanh chóng giảng hoà, tổ chức hội thề Đông Quan và rút toàn quân về nước. Khi quân Minh sắp rút đi, một số tướng khuyên Lê Lợi nên đánh thêm một trận để cho giặc không dám sang nữa nhưng Nguyễn Trãi can nên tha cho những người cùng đường. Năm 1428, nhà Hậu Lê hình thành. Văn thần triều Lê Công thần bị tội Đầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính họ Lê và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ, được khắc tên trên biển Khai quốc công thần. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh. Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo” Trích trong Hoàng Việt Văn Tuyển phát hành năm 1825, bản lưu trữ tại thư viện Quốc gia ViệtNam Sau khi thành lập, triều đình bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn phe cánh, dẫn đến một loạt vụ án phản nghịch liên quan đến các công thần. Đầu năm 1429, Trần Nguyên Hãn tự tử sau khi Lê Thái Tổ ban chiếu bắt giam ông nhân việc một số quan lại như Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá dâng sớ tố cáo Hãn mưu phản. Hai năm sau, Lê Lợi tiếp tục sai giết Phạm Văn Xảo khi bọn Lê Quốc Khí tố cáo ông ngầm làm phản. Những người mà bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cho là bè đảng của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, bị xử tử và tù giam rất nhiều. Không rõ Nguyễn Trãi có bị vu cáo như vậy không, nhưng theo phỏng đoán của một số sử gia hiện đại thì thời gian này Nguyễn Trãi đã bị bắt và hạ ngục. Dựa vào thơ văn của ông như bài Oán thán kể lại tâm sự của Nguyễn Trãi khi bị tù đày vào hồi ông khoảng năm mươi tuổi tức năm 1429 hoặc những lời trần tình xúc động trong bài biểu mà ông dâng lên vua Lê Thái Tông để tạ ơn được ban chức Gián nghị đại phu, rất có thể Nguyễn Trãi đã bị nghi ngờ có liên quan đến Trần Nguyên Hãn nên bị bắt, sau lại được tha. Lê Thái Tổ tha cho Nguyễn Trãi, nhưng tước bỏ quốc tính của ông và không trọng dụng ông nữa. Suốt thời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi không được làm một việc chính sự quan trọng nào cả, ngoại trừ việc thảo các chiếu biểu thay vua theo đúng chức phận của một vị quan Học sĩ ở Hàn Lâm viện. Cuộc sống riêng của Nguyễn Trãi ở Thăng Long cũng rất nghèo túng, thiếu thốn. “ Góc thành nam lều một gian No nước uống thiếu cơm ăn [..] Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải Góc thành nam lều một gian”—Thủ vĩ ngâm Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển Tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi. Lão thần triều vua Lê Thái Tông Lê Thái Tông được chỉ định nối ngôi vua chỉ hơn một tháng trước khi Lê Thái Tổ qua đời. Điều này được một số nhà sử học hiện đại cho là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa ông và anh trai là Quận Ai Vương Lê Tư Tề, người sau này bị phế làm dân thường và chết một cách bí ẩn. Lê Sát, Phạm Vấn và Lê Ngân trở thành phụ chính đại thần, nhận di mệnh của Lê Thái Tổ để phò giúp vị vua trẻ tuổi. Nhưng, Lê Thái Tổ cũng có một cố mệnh khác. Lê Quý Đôn cho biết rằng “Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính” —Lê Quý Đôn – Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi Trần Huy Liệu phỏng đoán rằng, trước khi chết, Lê Lợi đã suy nghĩ lại và dặn dò Thái tử Nguyên Long phải đặt Nguyễn Trãi vào một chức vị khác trong triều đình. Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi. Sau đó, ông lại được tiến cử vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên.[42]. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó. Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với hoạn quan Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Đây vốn là công việc mà Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ sai làm từ trước, nhưng chưa kịp thi hành. Ngay tháng ấy, Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể thi hành. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy” — Nguyễn Trãi Tuy nhiên, vì bất đồng ý kiến gay gắt với Lương Đăng, chỉ bốn tháng sau, Nguyễn Trãi xin rút lui khỏi công việc này. Tháng 12 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cầm đầu một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Kết quả, Nguyễn Liễu bị đày ra viễn châu do có lời phỉ báng hoạn quan trước mặt vua. Không chỉ thất bại trong công tác chế định nhã nhạc, Nguyễn Trãi còn chịu nhiều định kiến từ các nhân vật nắm giữ quyền hành thời bấy giờ như Lê Sát, Phạm Vấn… Năm 1434, triều đình bận rộn với chuyến đi sứ sang nhà Minh, xin cầu phong cho vua Lê Thái Tông. Tờ biểu văn cầu phong do Nguyễn Trãi soạn, quan ở Nội mật viện là Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn sửa đối vài chữ. Nguyễn Trãi không cho, giận dữ mắng hai viên quan ấy là tham lam vơ vét, dẫn đến nạn hạn hán đang hoành hành lúc bấy giờ[46]. Nguyễn Thúc Huệ đem nói việc đó với Lê Sát và Phạm Vấn, khiến hai người tức tối, trách mắng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từ tạ nhưng Lê Sát vẫn giận không nguôi. Mâu thuẫn rắc rối đến độ, trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, các quan đại thần đá việc và mắng xéo lẫn nhau . Số là bảy tên tội phạm này đều còn ít tuổi, đi ăn trộm chiếu luật đáng xử trảm, nhưng các quan còn ngần ngại vì phải giết nhiều người quá. Khi được vua Lê Thái Tông hỏi về cách xử lý, Nguyễn Trãi đã khuyên vua nên thi hành nhân nghĩa. Nhân lời tâu của Nguyễn Trãi, Lê Sát, Lê Ngân mỉa mai ông là có nhân nghĩa, có thể cảm hoá được kẻ ác thành người thiện, rồi yêu cầu Nguyễn Trãi nhận và giải quyết mấy tên tù ấy. Nguyễn Trãi bối rối từ chối, tự nhận rằng “Những kẻ ấy là hạng trẻ con ranh mãnh, ương ngạnh, pháp luật của triều đình còn không thể trừng giới được, huống chi bọn tôi ít đức thì cảm hoá thế nào được ?”. Hồi lâu sau mới quyết định trảm hai tên, còn thì xử lưu đày. Vì vậy, khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn – nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông – chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua. Nguyễn Mộng Tuân từng đến chơi nhà ông và có câu thơ rằng Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán Tứ bích gia bần phú lục kinh Nghĩa là Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở. —Nguyễn Mộng Tuân Những năm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn cũng là những năm mà Lê Thái Tông, tuy chỉ là một vị vua thiếu niên, nhưng đã nắm lấy quyền hành cũng như thẳng tay trừng trị Lê Sát, Lê Ngân và nhiều người trong phe cánh của họ[49]. Nhà vua cũng có những động thái tỏ ý trọng dụng lại vị lão thần Nguyễn Trãi. Năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực. Vụ án Lệ Chi Viên Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Nhà vua lúc đó mới hai mươi tuổi, đang độ thanh niên, không ai nghĩ rằng đó lại là chuyến tuần du cuối cùng của vua. Và kéo theo sau đám tang là một vụ án oan khiên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên[e] thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu thí nghịch. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 tức ngày 16 tháng Tám năm Nhâm Tuất, Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 63 trong một hoàn cảnh bi phẫn và oan khuất. Được phục hồi danh dự Sau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy năm 1447. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư, Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ,… Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù – một người con của Nguyễn Trãi – chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương[56]. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ. Thời điểm Nguyễn Trãi mất cũng gần thời điểm vua Lê Nhân Tông lên ngôi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Ngày 18 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đảo chính, giết Lê Nhân Tông và Thái hậu, lên ngôi vua bốn ngày sau đó và trở thành vị vua thứ tư của nhà Hậu Lê. Thế nhưng, thời gian trị vì của vị vua này kết thúc vào ngày 24 tháng 6 năm 1460 khi các quan đại thần như Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Lê Lăng,… tổ chức cuộc binh biến lần thứ hai, phế truất và giết Lê Nghi Dân. Gia Vương Lê Tư Thành được tôn lên ngôi vào ngày 26 tháng 6 năm ấy, trở thành vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê – Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là con trai của Lê Thái Tông với bà Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, người từng chịu ơn cứu mạng của vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ trong những ngày bà mang nặng đẻ đau vua Lê Thánh Tông năm 1442. Có lẽ vì thế, dù chưa từng và không thể gặp mặt Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông hẳn có sự chú ý đặc biệt với vị lão thần quá cố. Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm oan khuất, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, rồi lại truy tặng tước hiệu Thái Sư Tuệ Quốc Công, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống, bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế”. Dịch là Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau Gia đình Nguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai. Vợ Bà Phạm Đỗ Minh Hiển Bà Phùng Thị Bà Nguyễn Thị Lộ Bà Phạm Thị Mẫn Bà Trần Anh Minh . Con Nguyễn Khuê con bà Trần Thị Nguyễn Ứng con bà Trần Thị Nguyễn Phù con bà Trần Thị Nguyễn Bảng con bà Phùng Thị Nguyễn Tích con bà Phùng Thị Nguyễn Anh Võcon bà Phạm Thị Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kinh Môn, Hải Dương con bà Lê Thị Thuyết minh về Nguyễn Trãi Những dấu ấn trong sự nghiệp Tư tưởng Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển[60], đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống[59] hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu, có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó. Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh[6]. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê. Tư tưởng nhân nghĩa Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia[62]. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng. Mệnh trời Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân. Tư tưởng nhân dân Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam Quan điểm sống Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung. Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng “ Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó ” —Trần Đình Hượu Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lí[65]. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình[65]. Tư tưởng Lão – Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên. Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý – Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng – văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Sự nghiệp văn chương Nguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi… song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn. Văn chính luận Quân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh. Bình Ngô đại cáo Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông 1433 – 1442. Lịch sử Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng[69], dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán. Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433. Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng – lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Địa lý Dư địa chí là bộ sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam. Thơ phú Ức Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục Vô đề 192 bài, Thời lệnh môn 21 bài, Hoa mộc môn 34 bài, Cầm thú môn 7 bài. Đây là tập thơ nôm xưa nhất của ViệtNamcòn lại đến nay. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam. Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422. Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay. Những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi Bình Ngô đại cáo Từng nghe Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cỏi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Bạn đang xem Thuyết minh về Nguyễn Trãi Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi. Vừa rồi Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được? Ta đây Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm mang tính lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt của đất nước, được cho là bản tuyên ngôn độc lập của đất nước ta. Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên hợp lòng trời và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Bình Ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc, đề cao sự nhân nghĩa và cuộc chiến giữ nước của dân tộc. Cảnh ngày hè Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương. Tâm hồn của Nguyễn Trãi là một tâm hồn rất đỗi nhạy cảm, là sự giao hòa giữa lòng yêu thiên nhiên với lòng yêu đất nước. “Cảnh ngày hè” thể hiện rất rõ hồn thơ cửa Nguyễn Trãi cũng như tài năng của ông trong việc sử dụng ngôn từ. Cảnh sắc mùa hè hiện lên với đầy đủ hương và vị, nhạc và họa, tràn đầy sự bình yên. Đối nghịch với cảnh sắc đẹp đẽ bình yên, tâm hồn Nguyễn Trãi tràn ngập ưu phiền lo lắng trước cảnh muôn dân còn đói khổ. Tác phẩm đã thể hiện xuất sắc tấm lòng của nhà thơ dành cho đất nước bên cạnh lòng yêu thiên nhiên. Bài ca côn sơn Côn sơn ca Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm. Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về đi sao chẳng sớm toan, Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi? Muôn chung chín vạc làm gì, Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi. Đổng, Nguyên để tiếng trên đời, Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan. Lại kia trên núi Thú San, Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu. Hai đàng khó sánh hiền ngu, Đều làm cho thoả được như ý mình. Trăm năm trong cuộc nhân sinh, Người như cây cỏ thân hình nát tan. Hết ưu lạc đến bi hoan, Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay. Núi gò đài các đó đây, Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh. Sào, Do bằng có tái sinh, Vào Hun ta đọc cho nghe bài này! Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn thơ về quê ở ẩn đắm chìm trong không gian cảnh vật nơi Côn Sơn, thiên nhiên ấy giống như tri kỉ của nhà thơ vậy. Hồn thơ cùng với thiên nhiên như hòa vào làm một. Đặc biệt qua đó ta cũng thấy được những quan điểm suy nghĩ của nhà thơ về sự “hiền, ngu” trong cuộc đời. Bài thơ thơ đã vẽ nên cảnh sắc thiên nhiên yên bình, rộng mở và đẹp khôn cùng, đồng thời thể hiện tâm hồn cao đẹp không màng danh lợi của Nguyễn Trãi. Ba tiêu Tự bén hơi xuân tốt lại thêm, ầy buồng lạ, màu thâu đêm. Tình thư một bức phong còn kín, Gió nơi đâu, gượng mở xem.. Với phong cách nghệ thuật tượng trưng kiểu phương Đông, không nhất thiết tả cây chuối cụ thể, Nguyễn Trãi đã gây ấn tượng sâu sắc bởi sự cảm thụ của nhà thơ trước cái đẹp của sức xuân mà người con gái đẹp vốn là biểu tượng ấy. Sức trẻ ấy toát ra hương thơm, vẻ đẹp thanh tân của cây chuối gặp xuân được chiêm ngưỡng bởi một hồn thơ đa tình, nhạy cảm. về phương diện này, ta thấy Ức Trai tiên sinh người hơn ai hết, đời hơn ai hết, bên cạnh một Nguyễn Trãi thiêng liêng, cao đẹp, hoành tráng với áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo. Nguyễn Trãi xứng đáng là một trong những nhà văn nổi bật với tâm hồn sáng ngời, phẩm chất tốt đẹp, tấm lòng luôn hướng về nhân dân, đất nước, luôn luôn đau đáu trăn trở khôn nguôi. Cuộc đời của ông là một bi kịch khi bị hàm oan, dẫu vậy không thể phủ nhận sức sống trường tồn của các tác phẩm mà ông đã để lại cho thế hệ sau. Về phẩm chất và sự nghiệp Người thế kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông Công giúp hồng đồ cao nữa tựa núi. Danh ghi thanh sử sáng bằng gương. Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê, nhưng ông đã nói thẳng Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ Nghi tiếc rằng Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê vậy. Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp trên đời. Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông “đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất… nhưng vì tối nghĩa về “chỉ, túc” thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!… Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được”. Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực tôn quý ông và khẳng định Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm. Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao “mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ là quân sự chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh ít địch nhiều … thắng hung tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao… Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta. Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học. Về văn chương Nguyễn Trãi được đánh giá là một nhà văn chính luận kiệt xuất. Đời sau có nhiều người ca ngợi văn chương của ông Nguyễn Mộng Tuân xem ông là “bậc văn bá” Lê Quý Đôn đánh giá ông là “văn thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời” Tô Thế Nghi ca ngợi ông là “sông Giang sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao” Phạm Đình Hổ xem văn chương của ông “có khí lực dồi dào… đọc không chán miệng” Theo Dương Bá Cung, văn Nguyễn Trãi “rõ ràng và sang sảng trong khoảng trời đất” Theo Phan Huy Chú “văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế” Phạm Văn Đồng nhìn nhận văn chương Nguyễn Trãi “đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường” Riêng những tác phẩm văn chính luận của ông mang tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội, thể hiện lý tưởng chính trị – xã hội cao nhất trong thời phong kiến Việt Nam[81]. Ngoài ra, các tác phẩm này còn phản ánh tinh thần dân tộc đã trưởng thành, điều này được đánh giá là một thành tựu lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học ViệtNam. Về nhận định của Lê Thánh Tông trong thơ ca Lê Thánh Tông trong bài Minh lương Vua sáng tôi hiền viết trong Quỳnh uyển cửu ca có câu Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo. Trong một thời gian dài, nhiều sách giáo khoa lịch sử và văn học dịch câu này là “Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm”. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân khẳng định đây là một cách dịch sai lầm và lý giải nguồn gốc như sau Cách dịch câu thơ trên của Lê Thánh Tông như mọi người thường biết bắt đầu từ năm 1962, khi nhà sử học Trần Huy Liệu đưa ra bản dịch câu thơ đó trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, mà Bùi Duy Tân khẳng định là dịch sai “Ức Trai lòng sáng như sao Khuê”[83]. Bùi Duy Tân phân tích, trong câu dịch này, chữ “tảo” không được dịch, chữ “Khuê” bị hiểu sai nghĩa về văn cảnh. Các nhà xuất bản, trường học lần lượt sử dụng lời dịch sai này, xem đây là lời bình luận về nhân cách Nguyễn Trãi. Hệ quả là sau đó nhiều tác phẩm văn học, ca kịch… nói về Nguyễn Trãi dùng “sao Khuê” làm cách hoán dụ để nói về ông “Sao Khuê lấp lánh”, “Vằng vặc sao Khuê”…. Trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn học cổ đã từng có nhiều ý kiến nói về cách dịch sai này, nhưng ít tác giả làm rõ vấn đề[84]. Cần xem câu thơ của Lê Thánh Tông trong toàn bộ bài Minh lương để làm rõ nghĩa Cao Đế anh hùng cái thế danh Văn Hoàng trí dũng phú doanh thành Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo Vũ Mục hung trung liệt giáp binh Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển Nhị Thân phụ tử bội ân vinh Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi sự Bát bách Cơ Chu lạc trị bình Bài thơ này ca ngợi sự nghiệp nhà Hậu Lê. Bản dịch thơ của Hoàng Việt thi văn tuyển xuất bản năm 1958 xuất bản trước thời điểm Trần Huy Liệu đưa ra bài viết có câu dịch được phổ biến năm 1962 được các nhà nghiên cứu đính chính câu thơ trên cho rằng đã dịch đúng Cao Đế anh hùng dễ mấy ai Văn Hoàng trí dũng kế ngôi trời Văn chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng Binh giáp Lê Khôi bụng chứa đầy Mười Trịnh vang lừng nền phú quý, Hai Thân sáng rạng vẻ cân đai, Cháu nay Hồng Đức nhờ ơn nước Cơ nghiệp Thành Chu vận nước dài Một dị bản khác là Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, câu thứ 4 không dùng “liệt” mà dùng “uẩn” mang nghĩa chất chứa, được nhìn nhận là chuẩn xác hơn, và do đó đối chỉnh nghĩa với câu 3 về Nguyễn Trãi hơn. Theo nghĩa đen, “khuê” là 1 trong 28 vị tinh tú, biểu tượng của văn chương; tảo là loài rong biển, nghĩa rộng là màu vẻ đẹp đẽ, không phải mang nghĩa “sớm”. “Khuê tảo” đi với nhau chỉ văn, đối với “giáp binh” ở câu dưới chỉ võ. Cách dùng “khuê” để chỉ văn chương khá quen thuộc, ngay cả Lê Thánh Tông trong Quỳnh Uyển cửu ca cũng có viết “…thổ hồng nghê chí khí, quang khuê tảo chi văn” nghĩa là “nhả cái khí vồng mống, rạng cái vẻ văn chương…”. Do đó “khuê tảo” trong câu thơ của Lê Thánh Tông là ca ngợi văn chương Nguyễn Trãi chứ không phải ca ngợi nhân cách của ông. Ảnh hưởng của Nguyễn Trãi tới xã hội phong kiến và bây giờ Ảnh hưởng trong văn hóa. Năm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông[87]. Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962[88]. Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông[89]. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông[56]. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Tên ông cũng đã được đặt tên cho một con đường lớn ở Hà Nội, nối liền với quốc lộ 6 và tại nhiều thành phố khác ở Việt Nam. Năm 1980, UNESCO công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới. Ảnh hưởng trong nghệ thuật Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trở thành cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật. Bí Mật Vườn Lệ Chi kịch,tác giảHoàng Hữu diễnNSƯT Thành Lộc Nguyễn Trãi ở Đông Quan Kịch, Nguyễn Đình Thi Đêm của bóng tối Kịch, Lê Chí Trung Vạn xuân tiểu thuyết, Yveline Feray Đêm Côn Sơn thơ, Trần Đăng Khoa Nguyễn Trãi tiểu thuyết, Bùi Anh Tấn Thiên mệnh anh hùng phim dựa theo tiểu thuyết Nguyễn Trãi – quyển 2, Bức huyết thư – đạo diễn Victor Vũ. Đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn – Chí Linh – Hải Dương. Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Đại cáo bình Ngô tuy viết bằng chữ Hán nhưng xứng đáng là áng “Hùng văn muôn thuở”. Quốc âm thi tập là tập thơ tiếng Việt chữ Nôm sớm nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi – Bậc đại anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài số 1 của lịch sử Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi có 1 nhà chính trị, 1 nhà quân sự, 1 nhà ngoại giao, 1 nhà văn, 1 nhà thơ mang tầm cỡ kiệt xuất vĩ đại. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm năm sinh của ông. Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo dục
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trải qua nhiều thăng trầm từ khi giúp Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa cho đến vụ án Lệ Chi viên nổi tiếng trong lịch sử. Phần I – Tìm minh chủ dựng cờ phục quốc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn vai đeo túi nải tới gần ngã ba đường, chợt nghe thấy tiếng khóc từ trong làng xa vọng tới. Vừa dừng lại, hai người đã thấy một toán giặc Minh hùng hổ khiêng lợn, gà, gạo, từ trong làng đi ra. Một đám cháy, rồi mấy đám cháy nữa xuất hiện. Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn tái người khi nghe thấy lẫn trong tiếng nổ có những tiếng kêu thảm thiết. Trần Nguyên Hãn bặm môi, đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi. Hiểu ý, Nguyễn Trãi khoát tay – Hiện giờ ta chẳng giúp gì được cho dân mọn đâu. Đừng nóng mà hỏng việc. Hai người định quay đi thì lại có tiếng kêu thất thanh. Ngoảnh lại, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy không phải chỉ có một toán mà là nhiều toán giặc vừa đánh nhau với trai tráng trong làng vừa lùa vội đàn trâu, bò chạy xô ra đường. Chẳng đành lòng, nhưng nghĩ mình đang phải trốn giặc vào Lam Sơn tìm minh chủ dựng cờ phục quốc, nên Nguyễn Trãi thở dài nói với Nguyên Hãn – “Chở thuyền làm lật thuyền cũng là dân” [1]. Nay giặc Minh tích điều ác, nghịch lòng dân thì chúng càng mau chết. Ta chẳng đang vì cuộc sống no lành của muôn họ đó sao? Thoáng thấy Nguyễn Trãi rơm rớm nước mắt. Trần Nguyên Hãn bối rối xốc túi nải, nét mặt đăm đăm – Tình hình này ta chẳng thể theo lộ quan tới Lam Sơn được đâu. Đành phải xuyên sơn, chịu vất vả vậy. – Có sá gì! Miễn là tránh được mắt giặc. Ta cứ hướng theo con đường lai kinh mà đi. [2] Rẽ vào đồi rồi Trần Nguyên Hãn còn chưa hết bực – Đường đất chưa đi được là bao mà bảy lần thấy giặc chặn đường cướp giật, hành hạ dân mình. Tiểu đệ những tưởng chỉ ở nơi hang ổ của giặc, chúng cậy đông mới lộng hành đến thế! Nguyễn Trãi cướp lời – Trần huynh mải đọc binh pháp không đi đây đó nên không thấy đó thôi. Tôi chẳng may phải mười năm luân lạc nên mắt thấy tai nghe đã nhiều. Ở đâu có giặc là ở đó có dân mọn các làng không được yên sống. Từ lâu vẫn muốn hỏi về việc làm của bạn trong mười năm xa cách nhưng chưa tiện. Nhân Nguyễn Trãi nhắc tới những năm luân lạc, Trần Nguyên Hãn lựa lời hỏi những điều còn băn khoăn – Kể từ ngày đại huynh bị Trương Phụ bắt giam rồi được tha, người mình khởi binh chống giặc cũng nhiều mà sao đại huynh không theo phò ai cả. Ngày hai vị Vương họ Trần [3] dấy binh, thanh thế đã lớn mà nghe ngóng mãi cũng không thấy tiếng đại huynh? Nguyễn Trãi chậm rãi – Kể về thanh thế thì không chỉ có cuộc dấy binh của Giản Định, Trùng Quang mới là lớn. Và không phải tôi không có ý theo phò. Ngặt vì khởi binh đánh giặc là làm một việc lớn. Mà phàm mưu việc lớn, phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Duy nhân nghĩa gồm đủ thì công việc mới thành được. Lẽ ấy tôi không tìm thấy trong các cuộc khởi binh đánh giặc mà tôi biết. Ngày hai vị vương họ Trần, dẫu có danh tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân giúp rập, đã có lúc lấy được Nghệ An, Thuận Hóa. Nhưng thiếu chiến sách hay nội bộ chia rẽ, lại khôi phục cơ nghiệp nhà Trần, lòng dân không mong thì nghiệp lớn sao thành? Trần Nguyên Hãn băn khoăn – Đại huynh nói chí phải. Chính vậy mà tiểu đệ lo không biết hào trưởng Lê Lợi có đúng là người có chí lớn như ta hằng mong không? – Cứ phải mắt thấy tai nghe thì mới chắc. Nhưng cứ như cung cách làm việc của hào trưởng họ Lê thì ta có thể gửi chí mình được. Bắt đầu đường dốc, trời lại tối, hai người ngừng câu chuyện, đổi vai đeo nải dấn bước, người hơi ngả về phía trước. Trên kia, cao hơn cả những ngọn đồi cao nhất, là mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng xa xa, giữa bầu trời ngàn vạn ngôi sao lấp lánh. Tâm sự lúc nửa đêm Nguyễn Trãi giật mình choàng dậy sau giấc ngủ mê mệt, hậu quả của những ngày đi bộ. Chỉ đến lúc thấy qua rặng cây thưa, dòng sông Bùi kéo thành một vệt dài lấp loáng, lượn giữa hai dải rừng tối đen, Nguyễn Trãi mới nhận ra, mình đang ở trên một quả đồi thuộc vùng Tốt Động. Biết chẳng thể ngủ lại được. Nguyễn Trãi muốn đánh thức Trần Nguyên Hãn dậy để đi cho được đường đất, nhưng thấy bạn ngủ say nên không nỡ. Đêm tĩnh mịch quá – Nguyễn Trãi kêu lên se sẽ – Nguyễn chưa từng sống ở nơi này, trong hoàn cảnh này mà sao cảnh vật đêm nay thân thiết, quen thuộc như đã từng qua. Phải rồi – Nguyễn Trãi thầm nhủ – Cũng vẫn chòm sao tháng mười trên nền trời chuyển lạnh như thế này của hơn hai mươi năm trước, Nguyễn từ biệt Côn Sơn để trở về với cha ở Nhị Khê, sau khi mẹ rồi ông ngoại lần lượt từ trần. Tự dưng nhớ lại chuỗi ngày ấy. Nguyễn thấy thương nhớ cha da diết. Tiếng rằng cha đỗ tiến sĩ lại là con rể một tể tướng thời Trần, nhưng trước khi đổi tên Nguyễn Ứng Long thành Nguyễn Phi Khanh, ra làm quan cho nhà Hồ, cha vẫn phải sống cuộc sống nghèo nàn bằng nghề dạy học. Rồi cũng vào mùa này gần hai mươi năm trước, sau khi Nguyễn đỗ Thái học sinh [4], rồi cùng làm quan một triều với cha, Nguyễn những tưởng được đem tài sức cùng cha giúp Hồ Quý Ly thực hiện những canh tân, làm cho dân giàu nước mạnh. Nhưng giặc Minh xâm lược, cha con Hồ Quý Ly, cùng các triều thần trong đó có cha, đều bị giặc bắt. Khi biết cha sắp bị giải sang Ngô [5] và chuyến đi này không có ngày về, Nguyễn thương khóc cha khôn xiết. Ngày cha và vua tôi Hồ Quý Ly bị giải về Kim Lăng Nam Kinh, Nguyễn và em là Nguyễn Phi Hùng theo đoàn tù lên tận ải Pha Lũy [6] với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cho cha đến lúc mãn chiều xế bóng. Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh vĩnh biệt đau lòng nơi địa đầu Tổ quốc ấy, Nguyễn nào quên được. Nguyễn đã bắt gặp cái nhìn vừa âu yếm vừa nghiêm khắc của cha, khi nhân lúc vắng, cha vẫy Nguyễn lại gần và bảo “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”. Nguyễn cứ ân hận mãi lúc đó không kịp giãi bày tâm sự, hứa hẹn với cha. Nhưng lời giáo huấn của cha khiến Nguyễn thấu hiểu đạo làm con và bổn phận của người dân trong lúc đất nước bị giặc giày xéo. Thù nhà nợ nước đêm ngày thúc giục Nguyễn Trãi tìm phương nghĩ kế để rửa nhục cho nước cho nhà. Nhưng từ bấy đến nay việc lớn cứ canh cánh bên lòng mà nào Nguyễn làm được gì? Phải chăng Nguyễn Trãi đã để năm tháng trôi qua một cách vô ích, hay đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gây dựng việc lớn? Nguyễn không tủi hổ với vong linh cha và bổn phận một người dân; bởi vì hơn mười năm trời qua là hơn mười năm Nguyễn lênh đênh nơi góc biển chân trời, tìm người nghĩa khí, ôm ấp hy vọng đánh giặc, giải phóng non sông, đem lại thái bình cho muôn họ. Nguyễn nhớ lại bài thơ gửi chí mình làm từ ngày mới thoát khỏi tay Trương Phụ. Nguyễn đọc nhỏ “Thần châu [7] từ thuở nổi can qua Rên xiết muôn dân đến thế mà. Tử Mỹ [8] ôn trung Đường xã tắc Bá Nhân [9] chan lệ Tấn sơn hà. Thu về đất lạ lòng nhiều cảm Đời biến lâu nay khách chóng già. Ba chục năm trời danh tiếng hão Quay đầu muôn việc giấc nam kha.” Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần Kể từ ngày vào Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn phải làm những công việc về nghề nông do Lê Lợi cắt đặt. Nguyễn thấy rõ, Lê Lợi có tài điều khiển công việc, nhất là lòng độ lượng bao dung đối với mọi người, Nguyễn đã dày công để tâm dò xét động tĩnh của Lê Lợi. Nhưng ngoài mấy lời nhận xét Lê Lợi thường mua dầu nhiều hơn rượu, đêm đêm hay vắng nhà, tính tình trầm ngâm, kín đáo. Nguyễn không biết gì hơn. Tuy chưa nỗi thất vọng về con người mà ngày đêm Nguyễn hy vọng gửi chí mình, nhưng rõ ràng trong đám lá xanh thẳm của niềm tin ấy, đã điểm những chiếc lá vàng. Vì vậy, đêm nay Nguyễn phải quyết dò xem thực hư việc Lê Lợi dựng cờ phục quốc! Nguyễn không thể cứ sống nửa tin nửa ngờ trong lúc mối nhục mất nước, cảnh giặc nướng dân đen, vùi con đỏ vẫn ngày đêm giày vò tâm can Nguyễn. Trời vừa tối, thấy Lê Lợi vắng nhà, Nguyễn Trãi bèn vào rừng trèo lên một cây cao, nhìn bao quát bốn phía. Bỗng từ hang núi cách khá xa trang trại của Lê Lợi, thấp thoáng có ánh lửa hắt ra. Đoán Lê Lợi đang họp hội kín ở đó, Nguyễn Trãi hồi hộp lần mò tìm đến. Vừa tới cửa hang, Nguyễn đã nhìn rõ Lê Lợi cùng với chừng mười người nữa đang xúm quanh chiếc bàn đá, trên bàn bày biện nhiều sách mà Nguyễn nhận ra là các binh thư. Hồi hộp xen lẫn sung sướng. Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi nói với mọi người – Thế là mọi việc đã cắt đặt đâu vào đó. Các ngươi hãy cố gắng vì nghĩa lớn để rửa nhục mối hờn mất nước. Không nén được niềm vui quá lớn và đột ngột, Nguyễn Trãi vừa tiến vào hang vừa nói, giọng xúc động – Thưa chúa công! Bao năm nay đây mai đó tìm được người nghĩa khí, tôn phò minh chủ, bàn kế cứu nước, tới nay tới mới gặp. Lê Lợi giật mình tuốt gươm xông tới phía Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ngỡ ngàng dừng lại – Tôi đến đây xin làm nông phu chính là vì công việc phục quốc của chúa công. Nghe ra Lê Lợi hạ gươm, mời Nguyễn Trãi ngồi hỏi chuyện. Khi biết người mới vào là danh sĩ Nguyễn Trãi, con Trung thư thị lang, Hàn lâm viện học sĩ [10] Nguyễn Phi Khanh, Lê Lợi và mọi người vui mừng khôn xiết. Lê Lợi nắm tay Nguyễn Trãi, cung kính nói – Thật là trời đã đem đến cho ta một lương phu. Lê Lợi lần lượt giới thiệu những người xung quanh với Nguyễn Trãi. Lại một lần nữa, Nguyễn Trãi sửng sốt nhận ra tên tuổi nhiều người đã từng nghe nhưng chưa biết mặt. Nhưng nhớ ra điều gì hệ trọng, sau một phút tần ngần, Nguyễn Trãi rút từ trong tay áo tập sách đưa đến trước mặt Lê Lợi – Nhân đọc binh thư, lại phần nào thấu được lòng dân, xét được địch tình trong những năm luân lạc, tôi làm ra Bình Ngô sách này, mong có ngày dùng đến. Nay dâng chúa công xem xét [11]. Trong lúc Lê Lợi trân trọng đón lấy Bình Ngô sách, Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Đinh Lễ kéo Nguyễn Trãi đến gần mình vui vẻ nói – Anh em tôi vẫn đoán sẽ có ngày tiên sinh tìm đến và dâng diệu kế. Nguyễn Trãi mỉm cười – Trãi này nghe chúa công chiêu hiền đãi sĩ, mưu dấy binh thu lại mười lăm đạo nước đã mất, nên cùng Trần Nguyên Hãn tìm đến. – Cả Trần tiên sinh cũng đã tới rồi ư? – Lê Lợi đột ngột quay phắt về phía Nguyễn Trãi hỏi – Thưa chúa công, người nông phu vừa đến với tôi chính là Trần huynh đó. Lê Lợi giọng vui hẳn lên – Trời đã cho ta quân sư lại thêm danh tướng. Có nhân tài giúp rập, việc lớn ắt mau thành. Từ đấy, mừng vì tìm được minh chủ, lại được minh chủ chấp nhận Bình Ngô sách, giữ luôn bên mình bàn đại sự, Nguyễn Trãi phấn chấn để hết tâm trí giúp Lê Lợi trong mọi việc. Một hôm, người dân Lam Sơn xôn sao về cái tin có nhiều người nhặt được lá rừng ghi tám chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” [12]. Tin kỳ lạ đó được kể lại, truyền đi như lệnh trời truyền xuống, gây nên những chấn động mạnh mẽ trong nhân dân. Nghĩa quân đem lá nộp cho các tướng. Các tướng nộp cho Lê Lợi. Lê Lợi lúc đầu cũng ngạc nhiên. Nhưng sau khi xem xét thấy rõ có người dùng mỡ viết lên lá, kiến ăn mỡ hiện lên thành chữ, thì biết ngay là kế của ai rồi. Cầm một chiếc lá đặt trước mặt Nguyễn Trãi, Lê Lợi mỉm cười nói – Chẳng hay “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” là ý trời đã định thực chăng? Nguyễn Trãi bình thản trả lời – Thưa chúa công! Cho là ý trời cũng đúng, vì giặc thì dùng chính lệnh khắt khe, hình phạt tàn khốc, làm việc bạo tàn, khiến thần người đều căm giận. Ta khởi binh chống giặc, giải thoát cho dân là làm theo lòng dân. Thuận theo lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết. Ý dân là ý trời. Cho nên cho là ý trời đã định thì cũng thế. Lê Lợi gật gù – Ta có lời khen ngợi diệu kế của quân sư đó. Cũng từ đó, hào trưởng các nơi tìm đến ngày một tráng trong vùng đến xin theo nghĩa quân ngày càng đông. Núi rừng Lam Sơn náo động tiếng reo hò của nghĩa quân, ngày đêm luyện tập võ nghệ. Thấy cuộc dấy binh đã thuận lợi, ngày mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tuất [13], theo yêu cầu của Nguyễn Trãi và các tướng, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và xuất quân dẹp giặc cứu dân. Phần II – Cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi Tiến quân ra Bắc Chiếc lầu trúc cao ngất được dựng lên vội vã ngay trên bãi đất trước làng Bồ Đề [14]. Trên tầng lầu thứ hai, trước chiếc kỷ thấp, giấy bút, nghiên mực bày biện sẵn sàng, Nguyễn Trãi đang đăm chiêu suy nghĩ về việc vào thành Đông Quan dụ hàng Vương Thông ngày hôm sau [15]. Nguyễn biết, vào gặp tên giặc cáo già, lắm quỷ kế trong lúc hắn còn hy vọng trông chờ viện binh, không phải là không nguy hiểm. Nhưng Nguyễn có chính nghĩa, có lẽ phải, và Nguyễn nào quản đến tính mạng mình. Điều Nguyễn đang bận tâm là phải tìm một đối sách thích hợp vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng cốt làm cho Vương Thông nhận rõ điều hơn lẽ thiệt. Nay quân giặc tâm trí đã nản, kế đã cùng, nhưng Vương Thông đường đường là một tên đại tướng, hắn cần giữ thể diện. Nếu không mở mắt cho hắn thấy vua Tuyên Đức nhà hắn đang bận cuộc chiến tranh với Thát Đát, nhất là để hắn thấy rõ lòng nhân nghĩa cao cả của vua ta, thì không dễ hắn đầu hàng. Nhớ tới những lần đã vào thành dụ giặc hàng [16], Nguyễn thấy rõ, mỗi lần giáp mặt với chúng, tuy nguy hiểm, nhưng dễ cảm hóa được chúng hơn. Ý nghĩa ấy củng cố thêm quyết định của Nguyễn lần vào Đông Quan này. Bỗng tự trong làng, tiếng trẻ nhỏ hát vọng lên lầu nghe rõ mồn một “Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”. Câu hát ngộ nghĩnh lặp đi lặp lại, khiến Nguyễn bất giác mỉm cười. Nguyễn rời chiếc kỷ, bước ra hiên lầu, hướng về phía lũ trẻ vừa hát vừa cắt cỏ. Tiếng hát trẻ thơ lại được cất lên trên mảnh đất này – mảnh đất mà tháng trước còn rên xiết đau thương nằm trong tay giặc. Và, không phải chỉ có cái làng nhỏ bé này, mà là cả một vùng non sông rộng lớn đã như sống lại từ khi nghĩa quân của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trùng điệp kéo về, vây chặt lấy Đông Quan, căn cứ lớn cuối cùng của giặc. Phải – Nguyễn Trãi xúc động thầm nhủ – nghĩa quân đã về. Nghĩa quân đã về trong sự đón tiếp ân cần ruột thịt của nhân dân suốt các ngả đường hành quân và cả trong tiếng hát ngộ nghĩnh nở trên môi các em bé. Nhưng để có được chiến thắng này thật không dễ dàng. Nguyễn Trãi bỗng nhớ lại cuộc hành quân thần tốc, táo bạo của nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc mấy tháng trước. Lúc ấy cả miền đất rộng lớn từ Hải Vân đến Tam Điệp [17], quân giặc chỉ còn cố thủ được ở các thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An và Thuận Hóa [18]. Chúng đang ngày đêm trông chờ viện binh ở Đông Quan để cứu. Thấy sức mình đã mạnh, Lê Lợi có ý định đem quân ra Bắc đánh thẳng vào Đông Quan, thì lại được tin vua Minh cử Thành Sơn hầu Vương Thông, đốc suất 10 vạn tinh binh sang tăng viện và trao cho Vương Thông quyền thống lĩnh toàn quân thủy bộ thay Trần Trí. Thấy quân giặc tăng viện, nhiều tướng nghĩa quân ngần ngại chưa muốn tiến quân ra Bắc, Lê Lợi phân vân hỏi Nguyễn Trãi – Khi trước quân sư nói, thấy giặc mạnh thì phải tránh trong sự đánh nhau, đánh lâu mới thắng thì nhụt đồ binh khí. Ta đã nghe quân sư chỉ vây không cốt hạ thành Nghệ An để chia quân đi đánh các nơi sơ hở của giặc. Đó là diệu kế. Nhưng nay, 10 vạn tinh binh của Vương Thông đã ngạo nghễ vào đất Bắc. Chẳng hay nếu ta tiến quân ra đó là đánh vào chỗ mạnh của giặc chăng? Hiểu được tâm trạng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đáp – Tâu Vương Thượng! Trong lúc giặc tăng viện cho thành Nghệ An ta lấy Diễn Châu, Thanh Hóa là tránh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu! Nhưng trong cách dụng binh cũng có lúc phải mau chóng như thần, máy then đóng mở như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát chợt nóng chợt rét, thay đổi khôn lường thì mới giành được thắng lợi. Nay tiến ra Bắc, giặc Minh đông, ta phải ở thế lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Nhưng nếu dùng kỳ binh [19] đánh quân hăng, lừa quân mệt, được thời có thế, hợp với lòng dân thì yếu hòa mạnh. Dám mong Vương thượng cứ cho quân tiến đánh. Lê Lợi không giấu được niềm vui – Quân sư nói chính hợp ý ta. Rồi ngay đêm ấy, trái với phán đoán của nhiều tướng, Lê Lợi cho hội binh ở Lỗi Giang, rồi cử ba đạo quân theo ba đường khác nhau [20] do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Thả, Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân và 3 thớt voi rầm rộ tiến ra Bắc. Khuyên Lê Lợi tiến quân, nhưng thấy quân mình ít so với giặc, nên dù tin vào chiến thắng, Nguyễn Trãi vẫn không khỏi lo lắng từng ngày trông chờ tin tức. Chỉ hơn nửa tháng sau, tin đạo quân Phạm Văn Xảo đốc suất đã thắng lớn ở Ninh Kiền diệt giặc truyền về khiến cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi thêm vững tin vào chiến sách của mình. Rồi trận Cầu Mới, Xa Lộc; đặc biệt trận thắng lẫy lừng ở Tốt Động, Chúc Động làm cho Nguyễn Trãi xúc động đến cả đêm không ngủ. Thế là chỉ mấy nghìn quân của Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đã cả phá 10 vạn tinh binh của Vương Thông, giết đến 5 vạn quân địch, bắt sống đến một vạn tên, làm tiêu tan mọi quỷ kế của Vương Thông. Khao quân sau trận đại thắng ấy, Lê Lợi liền rời đại bản doanh từ Lỗi Giang ra Bắc, và đại binh do Lê Lợi, Nguyễn Trãi thân đốc suất đã đánh thắng tới Đông Quan, dồn giặc Minh như lũ chuột chạy vào thành. “Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”. Tiếng hát của các em bé lúc xa, lúc gần lại cất lên. Tiếng hát kéo Nguyễn Trãi trở về thực tại. – Thưa quân sư! Vương Thượng cho lệnh triệu quân sư – Nguyễn Trãi giật mình quay lại thấy người nghĩa quân đang đứng ở bậc lên xuống của tầng lầu. Nguyễn Trãi trìu mến nhìn người nghĩa quân – Ngươi về đi. Ta sẽ lên ngay. Nguyễn Trãi đi lên tầng lầu thứ nhất. Theo hướng đó, Nguyễn nhìn rõ thành Đông Quan hiện còn trong tay giặc, nằm phơi minh run rẩy. Hai đạo viện binh của giặc kéo sang Vừa trong thấy Nguyễn Trãi, Lê Lợi đứng dậy đón và vui vẻ nói – Lưu Thanh đem quân thành Tam Giang ra hàng. Thế là chỉ hai tuần trăng ta đã thu lại được các thành Nghệ An, Điêu Diêu, Diễn Châu, Thị Cầu, Tam Giang [21] không tốn một mũi tên. – Thế còn các thành Tây Đô, Tân Bình, Thuận Hóa, Khâu Ôn, Xương Giang [22] thần cũng đã có thư dụ? – Chỉ còn Xương Giang, Khâu Ôn chưa hàng mà thôi. Ta có lời khen mừng quân sư đó. – Người Ngô hình nặng chính ác, mất hết lòng người. Vương thượng thì lấy nhân thay bạo, lấy trị thay loạn. Bởi vậy, sĩ dân thỏa tấm lòng trung nghĩa, gắng rửa cái hổ lớn cho đất nước. Còn công của thần đâu đáng kể. – Rồi đổi giọng, Nguyễn Trãi tiếp – Hiện Vương Thông xin hòa, hẹn ngày đầu tháng, nhưng quân giặc trong thành vẫn đào bới, khiêng vác nhốn nháo. Rõ là chúng chưa thật bụng. Lê Lợi giận dữ – Đồ phản trác! Quân sư hãy viết cho hắn bức thư nữa, nói rõ điều hay lẽ thiệt cho hắn biết. Bằng không, ta đã động binh thì quân chúng sẽ không còn mảnh giáp. Bỗng tầng lầu rung lên tiếng chân người vội vã. Xoay người về phía cửa, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thấy một nghĩa quân mồ hôi đẫm áo vừa thở gấp, vừa rút từ tay áo cuộn giấy bọc sáp, cung kính đưa cho Lê Lợi. – Tâu Vương thượng! có tin cấp báo từ ải Pha Lũy gửi về. Chuyển bức thư đã xem xong cho Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói qua hàm răng nghiến chặt – Thằng nhãi Tuyên Đức! Mi lại sai mười lăm vạn viện binh cố tình gây thảm họa binh đao với ta. Lập tức, Lê Lợi cho triệu các tướng đến lầu Bồ Đề ngay trong đêm ấy. Trong buổi họp, nhiều tướng xin hạ gấp thành Đông Quan rồi đốc toàn lực ra đánh quân cứu viện cứu giặc. Nhưng y theo kế của Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói với các tướng – Đánh thành là hạ sách, ta đánh thành vững hàng tháng, hàng năm không hạ nổi, quân ta sức mệt khí nản. Nếu viện binh của giặc đến thì mặt trước mặt sau lưng đều bị giặc đánh, đó là con đường nguy. Sao bằng nuôi lấy sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh của giặc bị phá thì quân trong thành tất phải hàng. Làm một việc được cả hai, đó mới là toàn kế vậy. Nguyễn Trãi nói tiếp những điều đã bàn với Lê Lợi – Trong hai đạo viện binh của giặc thì đạo của Kiềm Quốc công Mộc Thạnh có tuổi, trải việc đời đã nhiều, đường đi lại hiểm trở, tất hắn không chịu tiến binh một cách xốc nổi. Còn đạo của An Viên hầu Liễu Thăng cậy có quân lắm, ngựa nhiều, hắn ỷ thế khinh thường ta mà tiến quân ào ạt. Vậy ta phải dốc sức diệt đạo viện binh này. Diệt được đạo này thì quân Mộc Thạnh không đánh mà tan; Vương Thông cùng kế phải xin hàng. Ngừng một lát, Nguyễn Trãi tiếp, hướng về phía Lê Lợi – Còn lẽ nữa, theo ý thần, muốn chắc thắng đạo binh 10 vạn của Liễu Thăng trước, phải hạ kỳ được thành Xương Giang đã. Bởi vì thành Xương Giang nằm trên lộ Lạng Sơn đến Đông Quan. Đánh Xương Giang là đánh thông đường để đại binh ta lên tận Lạng Sơn chặn giặc. Tin vui thắng trận Một nghĩa quân phóng ngựa vun vút vào doanh trại. Nhẩy từ trên mình con ngựa chiến mã đã sùi bọt mép xuống đất, người nghĩa quân vội lên chiếc lầu trúc cao ngất. – Tâu Vương thượng, thưa quân sư – người nghĩa quân vừa thở gấp vừa nói – quân ta đã đại thắng Liễu Thăng bị chém ở núi Mã An cùng với hơn vạn đầu giặc. Thôi Tụ, Hoàng Phúc bị lừa đến Xương Giang rồi bị bắt sống. Tiều thần được lệnh đi gấp về báo tiệp và nộp các ấn tín của bọn tướng giặc. Lê Lợi, Nguyễn Trãi vui mừng khôn xiết. Rồi, sau khi thân mật phủi lớp bùn trên tà áo chẽn của người nghĩa quân và tiễn ra tới cửa, Nguyễn Trãi trở lại nói với Lê Lợi – Vận nước thế là đã định đoạt. Thần kính mừng Vương thượng. Lê Lợi cảm động – Nếu ta nghe lời các tướng dốc sức đánh Vương Thông trước rồi mới cự với Liễu Thăng, hoặc không gấp hạ thành Xương Giang thì ta đâu thắng lợi nhanh chóng dường này. Chiến thắng này là nhờ chiến sách của quân sư. Không có quân sư ta đâu có ngày nay. Tiếng reo hò mừng tin thắng lớn của nghĩa quân làm náo động cả quân doanh. Hòa trong niềm vui đó, Lê Lợi mỉm cười hỏi Nguyễn Trãi – Bây giờ quân sư định liệu thế nào? Như đã lường trước sự việc, Nguyễn Trãi đáp – Mộc Thạnh chưa chịu tiến binh. Vương Thông quỷ quyệt phản trắc là trông vào toán viện binh của Liễu Thăng. – Bây giờ ta gửi cho mỗi tên tướng giặc ít tù binh cùng với sắc thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng – Lê Lợi tươi cười ngắt lời Nguyễn Trãi – thì Mộc Thanh chỉ có chạy, Vương Thông chỉ có hàng. Ý quân sư định thế chứ gì? – Tâu Vương Thượng – Nguyễn Trãi phấn chấn đáp Quả là ý thần định thế. Nhưng “chó cùng rứt giậu” nên vẫn phải đề phòng chúng liều chết. Vương thượng nên mật sai Phạm Văn Xảo một phen ra tay đánh Mộc Thạnh. Còn thần, xin hạ lệnh cho các tướng vây chặt Đông Quan, một mặt dụ hàng, một mặt sẵn sàng giáp chiến. Lê Lợi trầm ngâm – Lòng nhân nghĩa của quân sư cảm hóa được cả cỏ cây, muôn vật. Nhưng lần này Vương Thông còn tráo trở thì chúng không còn được tha tội chết. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo Đêm đã gần sáng mà Nguyễn Trãi vẫn chong đèn ngồi trước kỷ cắm bút viết. Nguyễn không còn nhớ Nguyễn đã thức mấy đêm như thế, và không phải Nguyễn không khỏi cảm thấy mệt mỏi. Song, niềm vui thắng trận, mơ ước sắp rửa được nợ nước thù nhà, đã tiếp sức cho Nguyễn. Không vui sao được, khi mấy hôm trước, tin đạo viện binh của Mộc Thạnh bị đánh tan, Mộc Thạnh phải một mình một ngựa chạy tháo thân về nước. Còn Vương Thông, dẫu còn cứng cổ chưa hàng, nhưng trước sau hắn sẽ phải đầu hàng. Nguyễn đang bắt tay thảo Bình Ngô đại cáo theo ủy thác của Lê Lợi. Nguyễn say sưa sống lại từng chặng gian nan của cuộc kháng chiến với tất cả những rung động sâu sắc của tâm hồn mình. Nguyễn dùng bút, ngả người vào thành ghế, cầm lấy bản thảo, đọc lại mấy đoạn đã viết từ đêm trước “… Xét như nước Đại Việt ta Thật là một nước văn hiến … … … … … … … … … … … … Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Mà hào kiệt không bao giờ thiếu…” Nguyễn đọc lại hai lần đoạn văn và hài lòng vì nó đã lột tả được lòng tự hào về non sông đất nước; đặc biệt tuyên ngôn được dụng ý; Nước Đại Việt và nước Ngô đều từng làm chủ một phương như nhau. Đọc lại, nhưng có lúc Nguyễn Trãi phải nghiến răng lại, có lúc muốn đứng vùng lên, y hệt như Nguyễn tận mắt nhìn giặc Minh hành hạ dân mình “… Thui dân đen trên lò bạo ngược Vùi con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe Cậy binh gây hấn ác chưa gần hai chục năm…” Nguyễn đọc tiếp “… Chính lúc nghĩa binh mới nổi. Là lúc thế giặc đang hăng…” Nguyễn buông tập giấy, đắm mình trong suy tưởng. Mười năm trời! Mười năm nằm gai nếm mật “… Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần; Lúc Khôi Huyện quân không một lữ…” Nhưng cũng là mười năm bền bỉ, dẻo dai, mưu trí và dũng cảm, quyết tâm chống giặc để những chiến công chói lọi nở hoa và ghi khắc mãi vào sử sách, vào lòng người. Hào hứng ôn lại từng chặng chiến thắng của nghĩa quân; nhớ lại lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, phải rỏ nước mắt thịt voi trận mà nay nghĩa quân đã trùng trùng, điệp điệp đang siết chặt lấy Đông Quan, Nguyễn tưởng như mình đang đi giữa hàng quân, giẫm lên xác giặc. Nguyễn ghi vội những ý mới nảy. “… Voi uống nước, nước sông phải cạn Gươm mài đá, đá cũng phải mòn … … … … … … … … … … … … Tổ kiến hổng làm toang đê vỡ Trận gió rung, rụng trút lá khô…” Nguyễn lại ngả người vào thành ghế, căng óc tìm ý rồi lại viết. Cho đến lúc phải lên đèn, Nguyễn mới viết những câu cuối, lòng phấn chấn lạ thường “… Ôi một gươm đại định tạo thành công nghiệp vô song Bốn biển lặng yên, rộng ban duy tân tuyên cáo Báo cáo xa gần mọi người cùng nghe” [23]. Lê Lợi cho mời Nguyễn Trãi vào đại bản doanh Bồ Đề để cùng tiếp sứ của Vương Thông, Sơn Thọ đến “xin hòa” và rút quân về nước. Nghe Nguyễn Trãi, Lê Lợi ưng thuận cho hòa. Nhưng lúc ấy, các tướng lĩnh vì căm hờn sự tàn ngược của giặc nên đã khẩn khoản xin đánh. Một lần nữa, Lê Lợi lại hỏi ý kiến Nguyễn Trãi, nhân thể để Nguyễn nói với các tướng, Nguyễn Trãi tâu – Giặc Minh hung tàn, lòng người chứa oán đã sâu, nay muốn giết hết bọn chúng đi để trả thù xưa không phải là không có lẽ. Tình hình quân giặc lúc này, mình muốn phá vào sào huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm cừu không phải là một sự khó khăn. Nhưng thần trộm nghĩ như vậy sẽ kết mối thù với triều Minh quá sâu… Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ kia lâm vào thế cùng, mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước. Lê Lợi và các tướng đều nghe theo. Ngày 22 tháng 11 năm 1427, ở ngoài cửa Nam thành Đông Quan, một đài cao được dựng lên vội vã. Bọn Vương Thông mở cửa thành lúc nhúc chui ra làm lễ tuyên thệ trước mặt Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng nghĩa quân, xin nộp thành để bảo toàn tính mạng rút về nước. Tám vạn quân giặc sống xót sau đó lủi thủi ra đi. Trong lễ chiến thắng tưng bừng ấy, Lê Lợi, Nguyễn Trãi dẫn đầu đoàn quân, rầm rộ tiến vào Đông Quan. Phần III – Những năm tháng làm quan Tâm sự của Nguyễn Trãi Đã được trả lại tự do nhưng Nguyễn Trãi buồn lắm. Dù Nguyễn Trãi vẫn được phong tước Quan phục hầu; về quan chức, Nguyễn vẫn giữ chức Nhập nội Hành khiển [24] lại bộ thượng thư, kiêm quản công khu mật viện như khi luận công ban thưởng sau chiến thắng giặc Minh, nhưng Nguyễn không được vua Lê Thái Tổ [25] tin dùng nữa. Nguyễn không lạ gì Hàn Tín trước khi bị Hán Cao Tổ giết đã biết rằng, những kẻ dùng mình sẽ không dùng mình khi đế nghiệp đã thành. Nguyễn còn hiều về cuối đời, Lê Lợi lắm bệnh, thái tử Nguyên Long còn nhỏ, lại ham chơi bời nên rất lo ngại uy tín của một số công thần. Nguyễn chưa gặp phải nạn lớn [26] là vì trong tay Nguyễn không có binh quyền; có lẽ còn vì đời Nguyễn quá trong trắng, đến nỗi vua khó gán tội cho Nguyễn. Nguyễn vẫn còn làm quan. Nhưng làm quan mà như đi ở ẩn. Nỗi khổ tâm bị Lê Lợi bạc đãi; cảnh sống nghèo túng giày vò khiến Nguyễn phải bặm môi, kìm nước mắt khi gửi nỗi lòng vào bài thơ mới viết. Nguyễn ngậm ngùi đọc lại “Góc thành Nam lều một gian No nước uống thiếu cơm ăn. Con đòi trốn dường ai quyến Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá Nhà quen xứ xửa ngại nuôi vằn Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải Góc thành Nam lều một gian”. Tuy nhiên, Nguyễn không cực lòng vì phải sống trong cảnh nghèo túng. Nguyễn bao giờ chẳng tự nhủ “Bữa ăn dù có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là” [27] “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh Áo bỏ quen cật vận xênh xang”. [28] Điều khiến cho Nguyễn đau đớn, thất vọng là hoài bão trị nước, an dân, giúp nghiệp trị bình thế là không làm được. Từ những ngày còn đọc binh thư, Nguyễn đã ước rằng, sau khi đánh đuổi được giặc Minh, sẽ xây dựng một xã hội thịnh trị như xã hội vua Nghiêu, vua Thuấn [29]. Xã hội mà Nguyễn muốn kiến lập sau khi đuổi giặc Minh là xã hội mà vua phải xứng đáng làm vua. Người làm vua “phải trọng nhân nghĩa”, làm điều nhân nghĩa, phải “thích nghe, thích xét”, phải “rủ lòng thương yêu muôn dân”, chớ “thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư nộ”. Sau vua, Nguyễn chú ý đến những người “cư quan nhiệm chức”. Nguyễn muốn “người có chức vụ coi quân trị dân”, phải theo đạo nhân nghĩa của vua. Người đó không được “che ác với vua” không “kết lập bè đảng”, không “vụ ích cho riêng mình”. Người “cư quan nhiệm chức” còn phải là người “rất thẹn thùng” về “đẹp cung thất, cao đài tạ”, và cũng “thẹn thùng” về những việc làm “theo ý mình, ức lòng người”. Họ phải luôn nhớ rằng “những quy mô to lớn, cao lồng lộng đều là sức lao khổ của nhân dân”, khi “ăn lộc” phải “đền ơn kẻ cấy cày”,không được “sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều”. Khuyên răn người khác, trước hết Nguyễn tự răn mình “- Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ Áo người vô nghĩa mặc, chẳng thà” [30]. Nguyễn còn tự nhủ lòng “- Lòng thế bạc đen dầu nợ biến Ta thì nhân nghĩa chớ loàn đan” [31]. Sống giữa triều đình phong kiến, Nguyễn chưa bao giờ mưu cầu cuộc sống giàu sang phú quý. Nguyễn luôn vui với cuộc sống giản dị, thanh cao và khuyên mọi người sống giản dị, thanh cao. Nguyễn nhớ Đỗ Mộng Tuân, bạn đỗ cùng khoa với Nguyễn, có lần đến Côn Sơn phải nói “Nhà quan tri tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước, bốn vách trống trải xác xơ nhưng giàu sách vở” [32]. Nguyễn lặng đi ngồi suy tưởng. Nguyễn cũng không nhớ Nguyễn ngồi như thế từ bao giờ. Nguyễn chỉ thấy càng suy tưởng càng thấy chán nản. Nguyễn tự hỏi Phải chăng, ước muốn xã hội thịnh trị, mọi người đều no đủ, thư thái “mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì ngủ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn” là trái với ý vua Thái Tổ. Lại nữa, cuộc sống thanh đạm, vui với cái nghèo của Nguyễn, cũng là cái cớ để bọn Lê Sát, Lê Vấn ghen ghét, kéo bè đảng chống lại Nguyễn? Không thể khác được, Nguyễn quyết định trở về Côn Sơn với tâm sự u uất “Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế [33] Ắt đã tròn bằng nước ở bầu”. Bài ca Côn Sơn Trở về Côn Sơn vui với rặng thông, rừng trúc, lánh xa triều đình bội bạc, Nguyễn Trãi thấy tâm hồn thư thái đôi chút. Chưa lúc nào Nguyễn làm nhiều thơ như lần trở về Côn Sơn này. Làm thơ để nói ý mình về nhiều lẽ đời, đã thực sự trở thành niềm vui của Nguyễn. Mang theo tâm sự của con người thất vọng trước những hoài bão lớn, Nguyễn biết dù thơ vẫn có cái hùng, cái đẹp của tạo vật, nhưng không giấu đươc một nỗi buồn trải ra mênh mông. Nguyễn đọc lại bài “Côn Sơn ca” vừa làm hôm trước mà lòng còn xúc động “Côn Sơn có khe Tiếng nước chảy rì rầm Ta lây làm đàn cầm. Côn Sơn có đá Mưa xối rêu xanh đậm Ta lấy làm chiếu thảm. Trong núi có thông Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong. Trong rừng có trúc Nghìn mẫu in biếc lụa Ta tha hồ ngâm nga bên gốc…” Nguyễn dừng lại thở dài ngao ngán. Nguyễn đã muốn đắm mình trong muôn màu hoa lá để làm kẻ “di thần di lão”, mà cảnh như sinh tình, nhắc nhở “… Người sao còn chưa đi về Nửa đêm bụi bặm hoài lăn lóc Muôn chung nghìn đỉnh có làm gì Nước lã cơm rau miễn tri túc…” Nguyễn lướt qua để đọc phần cuối, lòng băn khoăn như khi hạ bút làm thơ “… Người đời trăm tuối Rốt cuộc như thảo mộc Vui buồn lo sướng đổi thay nhau Một tuần một héo vẫn tương túc Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên Chết rồi ai vinh với ai nhục? Nhân gian nếu có bọn sao do Khuyên hãy nghe ta ca một khúc” [34]. Trở về Côn Sơn, vùng ra khỏi vòng vây ngột ngạt của bọn Lê Sát, Lê Vấn, Nguyễn không muốn nhắc đến chúng nữa. Nhưng Nguyễn không làm được điều ấy. Nguyễn vẫn thấy bọn tham quan như loài cỏ xấu, cứ mọc lên xanh tươi, mà Nguyễn thì bất lực chưa chặn chúng lại được. Nguyễn cầm bút ghi ý thơ “… Lòng người một sự yêm [35] chưng một Đèn khách mười thu, lạnh hết mười Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn Hoa thì hay héo cỏ thường tươi”. Có lúc Nguyễn định yên tâm với việc “cày nhàn câu vắng”, nhưng Nguyễn nào hết băn khoăn “Còn một lòng âu lo việc nước Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”. Vì vậy, sau khi Lê Lợi chết, được vua Lê Thái Tông vời đến, Nguyễn Trãi lại sẵn lòng ra giúp nước [36]. Trở lại chốn quan trường Ngay từ những ngày đầu trở lại triều đình, thấy vua còn trẻ lại ham chơi bời, mặc cho bọn Lê Sát lộng hành Nguyễn không khỏi băn khoăn. Nhưng tin vào sự trong sạch của mình, lo đến dân đến nước, Nguyễn yên lòng gánh vác công việc. Nhưng bọn tham quan đâu có để cho Nguyễn làm việc. Năm 1434, vua Lê Thái Tông sai Nguyễn Trãi viết biểu văn để sang nhà Minh cầu phong. Tờ biểu viết xong viên nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và viên học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi mấy chữ. Vốn đã biết bọn này dốt nát lại hay đục khoét dân, bè đảng của đại tư đồ Tể tướng Lê Sát, Nguyễn Trãi nổi giận mắng chúng – Đổi với chác gì? Các ông giỏi sao không viết thay tôi? Hiện nay trong nước đương hạn hán mà sở dĩ có tai nạn ấy chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều, nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt. Thúc Huệ đem lời Nguyễn mách với Lê Sát, Lê Vấn. Bị chỉ trán vạch tên, bọn chúng lồng lộn tức tối. Theo lệnh Lê Sát, Lê Vấn tức tốc gặp Nguyễn Trãi, mặt tái đi vì tức giận – Gây ra tai nạn không phải là lỗi tự bọn ti thuộc, mà chính bởi vua và tướng, sao ông quở trách nặng lời như vậy? Nguyễn Trãi nghĩ bụng bọn này đem vua ra dọa mình đây – Nhưng Nguyễn không nao núng, trả lời – Thúc Huệ là kẻ tài thì rất tầm thường, mà lại hay có thói bòn vét, hắn ở vào địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy hắn bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu cho công khố, cốt làm vui lòng quân thượng. Hằn thù cũ chưa qua thì Nguyễn Trãi lại đụng đầu ngay với Lê Sát. Cùng năm 1434, có bảy tên trộm tái phạm đáng tội chết. Vua Thái Tôn hỏi ý Nguyễn, Nguyễn tâu – Hình phạt không bằng nhân nghĩa là rõ ràng rồi. Bây giờ cùng một lúc giết bảy mạng người thì e không phải việc làm có đức cao. Lê Thái Tông nghe ra. Thấy vậy, Lê Sát bảo Nguyễn Trãi, giọng mỉa mai – Ông là người nhân nghĩa, có thể cảm hóa kẻ ác trở nên người thiện, thì đây xin giao bọn trộm cho ông. Nguyễn Trãi đáp ngay, không lộ sự khó chịu – Bọn chúng là đồ hung ác gian giảo. Pháp luật và chế độ của triều đình còn không răn chữa được chúng nữa là Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nổi. Về sau, vua nghiêng theo ý Nguyễn Trãi, chỉ khép tội chém hai tên cầm đầu, còn năm tên khác, khép vào tội phạt lưu. Từ đấy, bọn Lê Sát, Lê Vấn, Lê Ngân càng thêm thâm thù Nguyễn Trãi và chúng tìm mọi cách hãm hại Nguyễn, nhổ cái gai làm chúng ngày đêm khó chịu ở trong triều. Biết vậy, Nguyễn càng giữ mình cho sạch và không bỏ lỡ dịp nào để chặn lại hành vi tội lỗi của chúng, làm điều nhân nghĩa cho muôn họ. Đầu năm 1437, thấy Nguyễn Trãi có tài và trước sau giữ trọn tấm lòng trung, Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi và hoạn quan Lương Đăng trông coi làm việc xe loan và thẩm định nhã nhạc. Thấy rõ vua có chiều hướng ăn chơi xa xỉ trong lúc dân mọn đang đói khổ, Nguyễn Trãi lựa lời tâu – Thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính là phải thời lắm. Song cây không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc, không dám không hết lòng; song học vấn sơ sài, nông cạn sợ trong ánh thanh luật khó làm được cho hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu… Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Vua Thái Tông ban khen và nhận lời tâu của Nguyễn. Câu chuyện về “lễ nhạc” tưởng đã yên ổn. Nào ngờ cuối năm ấy, Lương Đăng lại dâng kiến nghị về nghi thức các buổi coi trầu hoặc yến tiệc trong những ngày sinh nhật nhà vua hay tết Nguyên đán. Thấy nghi thức của Lương Đăng soạn ra có nhiều chỗ lố lăng. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Liễu tâu với vua – Lễ nhạc là cốt ở người mới đặt ra được. Phải là bậc tài đức như Chu Công rồi mới sau không chê trách được việc đặt lễ, chế nhạc. Nay nhà vua để cho hạng bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc. Như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Vả lại việc làm của Lương Đăng đều là dối vua lừa dưới, không căn cứ vào đâu cả. Lương Đăng gượng gạo tâu – Thần là kẻ vô học, không biết chế độ thời xưa ra sao. Những việc bây giờ làm đó chỉ là biết thế nào làm thế ấy mà thôi. Nguyễn Liễu vốn ghét bọn tay chân của Lê Sát nên không kìm được tức giận, nói cho hả – Muôn tâu bệ hạ! Từ xưa tới nay chưa có bao giờ hoạn quan lại được tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy. Vừa lúc đó tên hoạn quan Đinh Thăng, vốn là bộ hạ của Lê Sát, từ trong nội đi ra, nghe thấy, mắng lớn rằng – Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ? Nếu nát thì phải chém đầu ngươi. Quá nghe lời xúi xiểm, gièm pha của bọn Lê Sát, vua Thái Tông cho bắt giam Nguyễn Liễu, giao cho hình quan xét xử. Liễu bị kết tội chém đầu. Nhưng vua xuống chiếu, giảm xuống tội thích vào mặt và bắt đi đày xa. Biết có ở lại triều đình cũng không “cứu cho khắp” được muôn họ, Nguyễn Trãi cáo quan trở về Côn Sơn. Đó là năm 1438. Quan Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi Sớm ngày 2-2-1442, trước điện Hội Anh, các sĩ nhân bốn phương trẩy kinh thi Hội đã lều chõng sẵn sàng, đứng thành hàng, theo lệnh viên quan giám thị [37] chờ đợi. Ở hàng đầu của đám sĩ nhân, Nguyễn Trực làm ra bộ quan trọng nói với bạn bên cạnh – Kỳ thi này do quan Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi chủ sự đấy! Người bạn tỏ ra hiểu biết – Quan Hành khiển mới từ Côn Sơn hồi triều ba hôm trước. Thấy quan trẩy kinh, anh em mình phấn chấn lắm. Được người liêm khiết, đức độ lại là bậc văn chương siêu việt như vậy chủ sự, thì chẳng còn ai là không công bằng. Nghe được câu chuyện, một sĩ nhân ở hàng sau, ngạc nhiên hỏi – Tôi nghe đồn quan Hành khiển đã xin cáo quan mấy năm trước rồi mà. – Ồ, quan anh chẳng biết gì cả – Nguyễn Trực đáp – Quan về Côn Sơn được một năm thì đức vua lại vời ra giúp nước. Lúc ấy quan đã 61 tuổi và mấy lần khước từ không được. – Thế ra đức vua đã tin dùng quan chứ không như tiên đế [38]. Nguyễn Trực sôi nổi nói thêm, cố làm ra hiểu thời cuộc – Bây giờ đức Thái Tông đã nhìn thấy triều đình đổ nát nên nắm lấy mọi quyền hành và trừng trị bọn quan xu nịnh. Vua đã cách chức tể tướng Lê Sát, giết Hạ Đằng Đắc, giáng chức bọn tay chân của Lê Sát là Lê Văn Linh, Lê Huy, rồi cuối cùng giết cả Lê Sát và Lê Ngân. – À ra thế! Nếu không được quan anh chỉ bảo, ở chốn rừng xanh, tôi đâu biết. Câu chuyện chấm dứt bằng một hồi chuông lanh lảnh cất lên. – Hoàng đế ngự giá – tiếng viên quan nội giám tuần xước [39] thét lớn. Các sĩ nhân nín thở, cúi rạp mình hồi lâu. Vừa được bình thân, Nguyễn Trực giọng vui vẻ, nói thầm với bạn – Đấy, quan Hành khiển, người có bộ râu bạc, đứng sau đức vua ấy. Có nhiều tiếng xuýt xoa – Trông quan điềm đạm mà quắc thước quá nhỉ! Lại một hồi chuông hiệu dóng dả. Các nhân sĩ đứng như hóa đá. Vua Thái Tông thân ra đầu bài văn sách “Luận về phép trị nước của các đế vương”. Xong thủ tục, vua lui về cung. Nguyễn Trãi cùng ban giám khảo cũng lần lượt về chỗ ở theo sự sắp đặt của viên quan giám thị. Khi đã ngồi trước kỷ sơn son phủ gấm, một lần nữa Nguyễn Trãi suy nghĩ về đề thi do Nguyễn thảo ra và được vua chấp thuận. Thâm ý của Nguyễn là muốn cho các sĩ nhân biết lĩnh hội phép trị nước của tổ tiên, nhân thể cũng là cách hướng các sĩ nhân phải đem học vấn ứng dụng cho đời, biết kiến giải thời cuộc, mong giúp vào việc hưng quốc an dân. Rồi Nguyễn lan man nhớ lại kỷ niệm ngày Nguyễn đi thi và cảnh Nguyễn hiện tại. Nguyễn vẫn thầm mừng lần này trở lại triều nhận chức cũ kiêm trung thư sảnh tam quán sự [40] và coi cả quân dân hai dạo Đông – Bắc mà vua mới gia phong, là thời kỳ Nguyễn bằng lòng nhất. Và, vua Thái Tông do nắm lấy triều đình đã bắt đầu nghe lời tâu bày về chủ trương của Nguyễn. Hơn thế nữa, ông vua 17 tuổi này cũng đã nảy sinh tấm lòng tưởng mộ Nghĩa Thuấn, khoan nới việc hình ngục. Cứ đà ấy, Nguyễn sẽ có cơ hội thi triển tài năng, dựng cho nước được nền thịnh trị thái bình. Nguyễn mải suy nghĩ cho đến lúc có hiệu lệnh giục các sĩ nhân nộp quyển chấm và làm thủ tục cho đề thi khác. Mấy ngày sau cùng các bậc văn bá ngồi chầu vua nghe đọc các quyển thi để định cao thấp, vua Thái Tông đã y theo Nguyễn Trãi lấy Nguyễn Trực đỗ trạng. Phần IV – Vụ án Lệ Chi viên Tin dữ từ Lệ Chi viên Nguyễn Trãi đã chuẩn bị xong chuyến đi kinh lý dài ngày ở Bắc Đạo. Côn Sơn vốn đã đẹp, nhưng chưa bao giờ Nguyễn thấy đẹp như sáng nay. Rừng trúc, rừng thông nhuốm nắng sớm trông như tấm thảm lụa vàng óng. Cũng chưa bao giờ Nguyễn phấn chấn như lần đi kinh lý này. Nguyễn vui hơn tuần trăng trước, vua Thái Tông nhân đi duyệt võ ở Chí Linh Hải Dương đã ngự giá tới Côn Sơn thăm Nguyễn. Cuộc đón rước định theo nghi lễ vua tôi, nhưng trái với lệ thường, vua cho được thân mật như người nhà. Vua mới đi được một tuần trăng. Cả Nguyễn Thị, người vợ yêu của Nguyễn, cùng được vua cho theo xa giá hồi triều. Lưu luyến xen lẫn mừng vui. Nhưng trước hết là vui vì Nguyễn thấy rõ vua Thái Tông ngày càng tin dùng và kính trọng Nguyễn. Nguyễn Thị cũng được vua phong chức lễ nghi nữ học sĩ, cho ra vào nơi cung cấm, dạy dỗ các cung nhân. Thay đôi hài cỏ bằng đôi giày trận, Nguyễn thong dong lên yên ngựa, cùng toán lính hầu cận. Ngựa chạy gằn để lại sau căn nhà là ấm cùng rừng thông nhấp nhô, nô giỡn với nắng, với tiếng nhạc ngựa tản nhanh trong gió sớm. Ngựa qua một chỗ ngoặt, Nguyễn bỗng thấy một kỵ binh đang phóng con chiến mã chạy ngược chiều với Nguyễn. Vừa kịp nhận ra người lính cẩm vệ quen thuộc của triều đình, thì người đó đã phóng từ trên mình ngựa xuống đất, mặt tái đi – Thưa quan Hành khiển! Vua Thái Tông đã băng hà ở vườn Lệ Chi [41] sau khi đi duyệt võ ở Chí Linh về. Và Tôn phu nhân đã bị bắt giam từ đó. Nguyễn Trãi đánh rơi sợi cương đang cầm trong tay, giọng lạc đi – Vua Thái Tôn băng hà, Thị Lộ vợ ta bị bắt. Căn nguyên bởi đâu? Người lính cẩm vệ run run đáp – Quan phụ chính nói rằng Tôn phu nhân đã đầu độc vua do quan chủ mưu. Ngày hôm nay quan Thái phó Lê Khả theo mệnh vua để lại, sẽ lập hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi. Đã có mật lệnh bắt quan và quý quyến ba tộc. Nghe tin dữ, con lén đi từ đêm báo quan để quan định liệu. – Ta có ngờ đâu đến nông nỗi này. – Nguyễn Trãi nói, giọng đau đớn – cả bọn chúng đã đồng mưu để hãm hại ta! Rồi sau phút bàng hoàng, nét mặt Nguyễn Trãi rắn đanh lại. – Cảm ơn người đã vì ta mà không kể đến tính mạng – Nguyễn lắm lấy cương ngựa – Cổ nhân từng nói Ngọc tuy đập vụn được nhưng không hủy được sắc trắng. Trúc đốt cháy được nhưng không hủy được gióng thắng. Ta dù phải chết oan theo mệnh trời nhưng lòng ta ngay, người đời sẽ chứng rõ. Nói xong, Nguyễn Trãi cho toán lính hầu cận trở về, còn Nguyễn thúc ngựa gióng thẳng tới Kinh. Vốn yêu Nguyễn như cha, toán lính hầu cận nài nỉ xin theo Nguyễn hồi triều. Họ không kìm được nước mắt khi biết Nguyễn đang đi vào cõi chết. Vụ án oan nổi tiếng triều Lê Nửa tháng sau, một trong những người lính hầu cận của Nguyễn Trãi trở lại Côn Sơn kể lại cho dân ở đó rằng Ngày hôm quan Hành khiển tới Kinh 15-9-1442, lập tức quan bị bắt và bị tống ngục tối. Ngày hôm sau, bà Nguyễn Phi Nguyễn Thị Anh người có tư thù với quan Hành khiển, ngồi sau rèm trông nom việc nước thay con mới 2 tuổi vừa được nối ngôi vua [42] đã sai hình quan đem vụ án “Nguyễn Trãi chủ mưu đầu độc vua” ra xử trước Đình Cúc [43]. Không ai cầm được nước mắt – Người lính nói – Khi thấy Tôn phu nhân bị giải ra trước, đầu tóc rũ rượi, máu mồm, máu mũi loang lổ trên mặt, trên cổ. Còn quan Hành khiển thì bị trói quặt cánh khuỷu, tóc đã bạc trắng, người gầy tọp hẳn đi, bị giải ra sau. Trong khi tra Tôn phu nhân, hình quan trước sau chỉ gặng hỏi một điều – Có phải ngươi đã tiến độc cho đại đức hoàng đế và cứu mưu thí nghịch ấy là do Nguyễn Trãi chủ sự không? Nghe hỏi, Tôn phu nhân trước sau như một kêu oan. Nhưng mỗi lần như thế, hình quan lại thét tên lính xúm vào đánh đập tàn nhẫn. Bị đánh đau, có lúc Tôn phu nhân lặng đi chết ngất. Cuối cùng không chịu được cực hình, Tôn phu nhân phải nhận như lời quan hỏi. Thế là quan Hành khiển phải khép vào tội tru di tam tộc. [44] Ngừng lại để lau những giọt nước mắt vừa trào ra, người lính kể tiếp – Ba ngày sau trên pháp trường dày đặc lính cấm vệ, sau khi viên quan đề hình tuyên đọc bản án, lần lượt quan Hành khiển, Tôn phu nhân và tất cả các con cháu đều bị chém. Phải nhìn cái chết thê thảm của quan Hành khiển – Người lính nói, giọng trầm hẳn đi – tất cả người xem đều khóc than khôn xiết. Hai viên hoạn quan [45] lỡ miệng than oan cho quan Hành khiển, cũng bị đem chém đầu. Còn nữa đây, người lính lục tìm trong túi áo, tờ giấy gấp vuông vắn đưa ra trước mặt mọi người nói – tôi còn sao được bài thơ cảm thán của quan Hành khiển làm trước khi chết. Một thanh niên tự nhận là học trò của Nguyễn Trãi, tay run run đón lấy bài thơ rồi đọc to cho mọi người cùng nghe “Cuộc đời chìm nổi mấy mươi năm Núi cũ khe xưa ước đã lầm. Danh giá bỗng mang vòng hoa thực Lòng ngay khôn gỡ miệng quân phàm. Tự văn chưa mất lòng còn đoái Định mệnh thôi đành chết cũng cam. Khó gửi nửa lời lên bệ ngọc Tỏ lòng oan tủi buổi tù giam”. Đọc xong bài thơ, người thanh niên òa lên khóc nức nở. Những người xung quanh cũng vừa khóc theo vừa ngậm ngùi kể cho nhau nghe những kỷ niệm êm đẹp về Nguyễn Trãi mà năm tháng đã khắc sâu vào lòng dạ họ. Vua Lê Nhân Tông [46] một hôm cùng các văn quan trong triều lên Bí thư các xem di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động nói với quần thần – Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng. Không may bị kẻ phụ gây biến mà người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương. Hai mươi năm sau, kể từ khi Nguyễn Trãi bị hại, vua Lê Thánh Tông [47] xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi và cấp cho con cháu Nguyễn 100 mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị “khai quốc công thần” chết oan. Trong khúc “Quỳnh uyển ca”, vua Thánh Tông nhận rằng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” [48]. Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê Chuyện kể về Nguyễn Trãi – Theo Quỳnh Cư Chú thích trong truyện Nguyễn Trãi Câu nói này, tư tưởng này, Nguyễn Trãi sẽ nhắc lại trong tờ “Chiếu về việc làm bài Hậu tư huấn để răn bảo thái tử”. Từ Hà Nội theo đường quốc lộ 6 sang vùng Chương Mỹ vào Tây Hòa Bình – Ninh Bình tới Thanh Hóa. Giản Định đế Trần Ngỗi và Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng. Năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, tức tiến sĩ. Minh Thái Tổ lúc mới khởi binh, dựng nước là nước Ngô. Nay là Hữu Nghị Quan. Thần châu dùng để chỉ nước nhà một cách quý mến. Tử Mỹ tức Đỗ Phủ, thi hào đời Đường. trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường đau đớn ôm lòng cô trung với nhà Đường. Bá Nhân Chu Nghi đời Tấn, làm thượng thư tả bộc xạ. Sau khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông cùng các danh sĩ yến hội ở Tân Đinh, nhìn non sông mà ứa lệ. Năm 1401, Hồ Hán Thương phong cho Phi Khanh chức quan này. Bình Ngô sách không nói đến việc đánh thành mà chỉ chú ý vào việc đánh vào lòng người. Được Lê Lợi chấp nhận, tư tưởng này chỉ đạo suốt cuộc kháng chiến chống Minh. Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi. Tức ngày 7-2-1418. Thôn Phú Hựu, Gia Lâm, Hà Nội. Nguyễn Trãi đã vào gặp Vương Thông một lần. Nguyễn Trãi đã vào dụ hàng các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Tây Đô,… Theo Trần Huy Liệu, trong sách Nguyễn Trãi, Nhà xuất bản khoa học, trang 114. Tam Điệp ở Ninh Bình, Thành Tây Đô ở Thanh Hóa. Thành Diễn Châu ở Diễn Châu, Nghệ An ngày nay. Kỳ binh có nghĩa như quân du kích, đánh du kích. Đạo thứ nhất do Phạm Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả chỉ huy mang quân và một voi chiến ra miền Thiên Quan Nho Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng,… Đạo thứ hai do Bùi Bị, Lưu Nhân Chú chỉ huy, đem quân và 2 voi chiến tiến vào miền đất Thiên Trường Nam Định. Đạo thứ ba do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy đem quân tinh nhuệ chọc thẳng vào Đông Quan uy hiếp giặc. Thành Tam Giang ở mạn Việt Trì, Phú Thọ ngày nay, Thành Thị Cầu ở Hà Bắc ngày nay. Thành Xương Giang ở làng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, Lạng Giang. Người đương thời và người đời nay đều thán phục và cho Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là “Thiên cổ hùng văn”. Chức quan văn chỉ sau có Tể Tướng. Lê Lợi lên ngôi vua, được tôn là Thái Tổ nhà Lê. Năm 1420, Trần Nguyên Hãn đệ nhất công thần bị bắt, nhảy xuống sông tự tử. Phạm Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác, bị giết. Cũng năm ấy, Nguyễn Trãi bị hạ ngục, về sau được tha. Thơ “Nối chí mình” bài số 3. Thơ “Tức sự” bài số 4. Nguyễn từng tâu với vua Lê Thái Tông “Thần chuyên đọc điển phần, chí những muốn việc cổ nhân đã muốn. Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”. Thơ “Thự thân” bài số 4. Thơ “Trần tình” bài số 3. “Nhất điều thủy lãnh tri tam quán Từ bích gia bần phú lục kinh”. Ngoài cuộc đời. Thơ chữ Hán, bản dịch của Đào Duy Anh. Yêm là chán. Trước khi chết có lẽ Lê Lợi nhận thấy lỗi lầm của mình nên đã dặn Nguyên Long Thái Tông phải đặt Nguyễn Trãi vào chức vị xứng đáng. Chức quan trông coi, chỉ bảo, giám sát sĩ nhân trong cuộc thi. Chỉ Lê Lợi. Viên quan giữ gìn kỷ luật trật tự, giám sát cuộc thi. Tam quán gồm Nho lâm quán, Sùng văn quán, Tú lâm cục. Đây là chức quan coi về văn hóa giáo dục, lễ nghi trong nước. Tục gọi là Trại Vải ở làng Đại Lải, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh nay là huyện Gia Lương, Bắc Ninh. Cuối năm 1440, Nguyễn Thị Anh, người vợ thứ 4 của Thái Tông Thái Tông có 5 vợ chính thức sinh Bang Cơ. Ngày tháng sau, Thái Tông tước ngôi Đông cung thái tử của Nghi Dân con người vợ thứ ba để lập Bang Cơ làm Thái Tử. Cũng trong năm đó, người vợ thứ 5 của Thái Tông là Ngô Thị Ngọc Dao có mang, Thị Anh sợ Ngọc Dao sinh quý tử thì ngôi vua thái tử của Bang Cơ sẽ mất, nên đã vu khống cho Ngọc Dao và xin vua khép tội voi giày, Thái Tông nghe Thị Anh xử Ngọc Dao vào tội phát lưu. Thấy oan ức Nguyễn Trãi bàn với Nguyễn Thị Lộ lúc này đang làm lễ nghi học sĩ vào xin vua Thái Tông, cứu Ngọc Dao. Nể Thị Lộ vua đổ tội phát lưu sang an tri, giam ở chùa Huy Văn gần Văn Miếu. Nguyễn Trãi, Thị Lộ thường cho người mang thức ăn đến cho Ngọc Dao. Ở đó sợ chưa yên, Thị Lộ, Nguyễn Trãi cho người đưa Ngọc Dao vào An Bang Quảng Yên. Về sau Ngọc Dao sinh ra Tư Thành Lê Thánh Tông. Những việc đó đều đến tai Thị Anh. Từ đó Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ, vẫn chờ cơ hội để trả thù thì xảy ra vua Thái Tôn chết đột ngột ở Lệ Chi Viên. Thị Anh đã nắm lấy dịp này để trả thù. Cơ hội trả thù lúc này càng dễ vì Bang Cơ đã lên làm vua, Thị Anh được ra thỉnh chính trông nom việc nước cùng con. Nơi xử án trước triều đình. Tất cả con và cháu trai bị giết; vợ và con gái, cháu gái sung làm tì thiếp. Đinh Phúc, Đinh Thắng. Làm vua từ năm 1443 đến 1453. Làm vua từ năm 1460 đến 1469 Ức Trai là hiệu của Nguyễn Trãi.
những câu chuyện về nguyễn trãi